Giải phẫu bộ máy nhai

giai phau bo may nhai

Chuyển động nhai liên quan đến nhiều cấu trúc khác nhau, những thành phần chính của bộ máy nhai gồm:

- Hệ thống xương khớp vùng mặt: xương hàm trên và dưới, khớp thái dương hàm.

- Hệ thống cân cơ nhai điều khiển bởi hệ thống thần kinh tinh tế.

- Cơ quan răng: tham gia trực tiếp vào hoạt động nghiền thức ăn.

Trong đó răng, cơ nhai và khớp thái dương hàm đóng một vai trọng trong sinh lý bệnh học.

1. Khớp thái dương hàm:

Là thành phần quan trọng trong bệnh sinh và triệu chứng học của bệnh loạn năng.

Diện khớp:

Diện khớp xương thái dương có hai phần:

- Hõm khớp (mandibular fossa): Thuộc phần trai xương thái dương.

- Chỏm thái dương (articular tubercule of temporal bone): Liên tiếp với hõm khớp, nằm trước hõm khớp.

Diện khớp xương hàm dưới: Là chỏm lồi cầu.

Đĩa khớp:

Đĩa khớp là một tấm xơ sụn, hình bầu dục với trục lớn nằm ngang, mặt dưới cong lõm theo hai chiều ngoài trong và trước sau, mặt trên cong lõm phía trước và cong lồi phía sau. Theo chiều ngoài trong thì đĩa khớp ở phía trong dày hơn, chiều dày ở trung tâm đĩa là 1mm, ở phía trước là 2-4 mm, ở phía sau là 4-6 mm. Bờ ngoài đĩa hơi mỏng hơn và là nơi duy nhất có mạch máu và dây thần kinh đến .

Đĩa khớp có nhiệm vụ chặn và phân tán lực nhai, đồng thời cho phép chuyển động hài hòa của đĩa khớp - lồi cầu. Khả năng chịu lực tối đa của đĩa khớp trên thực nghiệm là 180 kg .

Bao khớp:

Bao khớp là một bao hình trụ tạo bởi những sợi đàn hồi, chiều dày 2-3 mm. Phía trên bám vào bờ trước chỏm thái dương, đáy gai bướm, bờ trước của khe Glaser, mỏm gò má. Phía dưới bám quanh lồi cầu. Bao khớp gồm có 2 lớp nông và sâu. Lớp sâu do bám vào đĩa khớp nên chia làm 2 phần: Bao khớp thái dương - đĩa, bao khớp đĩa - lồi cầu. Lớp nông không bám vào đĩa khớp mà chỉ phủ ngoài lớp sâu. Hầu như không có ranh giới giữa hai lớp nông và sâu.

Ở phía sau, những sợi thái dương - đĩa khớp tạo thành một dây phanh, hãm chuyển động ra trước của đĩa. Những sợi ở phía sau này tạo thành một đệm sau lồi cầu, rất giàu mạch máu, giãn ra khi há miệng và nhờ vào tính đàn hồi mà kéo đĩa trở về lại vị trí cũ khi ngậm miệng. Khi lồi cầu ở tư thế tương quan trung tâm thì những sợi dây phanh sau này sẽ xếp nếp lại, thu vào trong khe Glaser. Trước khi xương thái dương bị canxi hóa hoàn toàn thì ta thấy có sự nối thông giữa hòm nhĩ với khoang khớp thái dương hàm và đường nối này sau đó là chỗ bám của dây chằng sau đĩa và dây chằng búa hàm .Qua trung gian dây chằng búa hàm này mà LNBMN gây ra các triệu chứng ở tai .

Phía trước: Bao khớp được chia thành hai phần là trên và dưới, chiều dài không bằng nhau. Phần trên là do biệt hóa của bám tận cơ chân bướm ngoài (phía trong) và cơ thái dương (phía ngoài). Phần dưới là do biệt hóa của bám tận cơ cắn .

Dây chằng:

Có nhiều dây chằng nối lồi cầu với nền sọ, có nhiệm vụ giới hạn phạm vi vận động của lồi cầu . Các dây chằng lại được chia thành thành 2 nhóm: Dây chằng tại khớp và dây chằng ngoài khớp.

2. Hệ thống cân, cơ nhai:

Các cơ chính điều khiển chuyển động hệ thống nhai gồm có: Cơ cắn, cơ thái dương, cơ chân bướm trong, cơ chân bướm ngoài, các cơ trên móng và dưới móng.

Ngoài tác dụng ăn nhai các cơ này còn phối hợp với các cơ cổ giúp giữ sọ thăng bằng trên cột sống cổ và chức năng này có vai trò quan trọng trong bệnh sinh LNTDH. Thực nghiệm cho thấy nếu ta đặt một sọ khô dựa trên  cột sống cổ, thì nó sẽ bị mất thăng bằng về phía trước và nhanh chóng rơi về phía trước. Cân bằng càng khó đạt được khi có hàm dưới ở tư thế treo bên dưới phần trước sọ. Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng không bao giờ tồn tại tình trạng cân bằng giữa những thành phần xương đầu và cổ. Chính vì vậy hệ thống cơ rất cần thiết để giúp khắc phục sự mất cân bằng trọng lượng và khối lượng này.

Để giữ đầu ở tư thế thẳng đứng sao cho có thể nhìn thẳng về phía trước, thì các cơ bám phía sau đi từ sọ tới vùng xương sống cổ và vai phải tăng trương lực. Một số cơ phục vụ chức năng này là cơ thang, cơ ức đòn chũm. Nếu một người muốn nhìn lên trên thì các cơ này còn phải co thắt mạnh hơn nữa.

 

Hình. 1.1: Thế cân bằng phức tạp và chính xác của các cơ đầu và cổ để duy trì tư thế đầu và chuyển động nhai một cách hợp lý. A, Hệ thống cơ. B, Mỗi cơ lớn hoạt động như một băng thun đàn hồi. Sự căng cơ đối diện phải chính xác để cân bằng và giữ đầu ở tư thế mong muốn. Nếu một sợi đàn hồi bị đứt, sẽ phá vỡ sự cân bằng của toàn bộ hệ thống và tư thế đầu sẽ bị thay đổi.

Để cân bằng lực với trương lực của nhóm cơ phía sau là một nhóm cơ đối kháng nằm ở vùng trước đầu: Cơ cắn (đi từ hàm dưới tới sọ), cơ trên móng (đi từ hàm dưới tới xương móng) và cơ dưới móng (nối xương móng tới xương ức và xương đòn). Khi các cơ này co sẽ làm hạ thấp đầu. Như vậy luôn tồn tại một cân bằng trương lực cơ giúp duy trì đầu ở tư thế mong muốn (Hình. 1.1). Tương tự, những cơ này cùng với các cơ khác cũng giúp duy trì hợp lý tư thế cân bằng giữa hai bên phải-trái và động tác quay đầu . Chính vì vậy mọi bất thường của  xương hay cơ cột sống đều có ảnh hưởng lên bộ máy nhai.

3. Cơ quan răng:

Trước đây răng được miêu tả gồm có: Thân răng (ngà răng và men răng) và chân răng (ngà, xi măng chân răng), ở giữa có một khoang tủy. Ngày nay người ta thay bằng một quan niệm rộng hơn là cơ quan răng, bao gồm:

 ◦  Răng (men, ngà, xi măng) có nguồn gốc từ nang răng.

 ◦  Tổ chức quanh răng (lợi, xi măng răng, dây chằng quanh răng, xương ổ răng). Xi măng và dây chằng quanh răng biệt hóa từ túi răng và xung quanh đó là xương ổ răng.

Nghiên cứu hình thể răng và cung răng cho phép hiểu được mối liên quan giữa hai hàm răng và quan điểm khớp cắn bình thường cũng như những yếu tố nguy cơ.

Hai yếu tố quyết định tính đặc trưng của mỗi răng là mặt nhai (mặt thân răng) chịu tác động trực tiếp của những lực sang chấn và trục chân răng có vai trò chống đỡ và truyền những lực này.

Mặt nhai là phần hoạt động của thân răng (nó phải đáp ứng yêu cầu ổn định chức năng và hoạt động nhai), được tạo bởi các rãnh và múi. Có thể là một múi (răng nanh) hay nhiều múi (răng cối lớn và cối nhỏ) hay thành bờ cắn (răng cửa).

Múi răng:

Những múi răng được xếp một cách hợp lý để phù hợp với yêu cầu sinh lý, nhằm mục đích:

- Giảm lực tác động lên răng (làm giảm khả năng gãy, vỡ) và tổ chức quanh răng.

- Tiết kiệm năng lượng dành cho vận động cơ.

- Dự phòng cắn phải môi, má.

>>Xem thêm chi tiết tại đây 

Rãnh:

Giữa 2 múi răng có một rãnh chính, giữa 3 múi răng có một hố (trũng). Từ những rãnh chính tách ra các rãnh phụ đi trên mặt múi răng, giúp tăng hiệu quả nhai và tạo đường thoát cho thức ăn. Hướng và vị trí của những rãnh này tạo điều kiện cho vận động sang bên của múi răng đối diện, tránh tạo ra cản trở cắn.   

Tin cùng chuyên mục