Các nguyên nhân gây đau vùng mặt

đau vùng mặt

Vùng mặt là vùng có nhiều dây cảm giác nhất của cơ thể. Về giải phẫu dây V chia 3 nhánh, chịu trách nhiệm cảm giác vùng mặt. Đau vùng mặt là hiện tượng tăng cảm giác, tương đối hay gặp và khó dự đoán.

Bác sĩ Răng Hàm Mặt là người thường xuyên phải khám cho bệnh nhân đau vùng mặt, phải đưa ra chẩn đoán. Thường yếu tố lâm sàng đủ để đưa ra chẩn đoán. Một số trường hợp thì là do loạn năng khớp thái dương hàm. Một số trường hợp khác có thể là do bệnh lý của các chuyên ngành khác: thần kinh, mắt, răng, tai mũi họng. Thường điều trị đau vùng mặt bằng các loại thuốc giảm đau toàn thân. Nhưng đối với một số bệnh lý chuyên biệt cần có một điều trị riêng.

Giới thiệu:

Đau vùng mặt là nguyên nhân đến khám rất hay gặp. Khoảng 10% dân số đã từng đau vùng mặt. Đàn bà bị gấp 2 lần đàn ông, tần số mắc bệnh này liên quan đến yếu tố bệnh nguyên. Cần nói đến tầm quan trọng của việc chẩn đoán và điều trị, chúng ta có thể chia thành 2 bước: bước đầu là chẩn đoán và bước 2 là điều trị.

Đau vùng mặt được định nghĩa là cơn đau ở vùng mặt, nó thường kết hợp với đau vùng sọ não. Đau vùng sọ não liên quan nhiều đến bệnh lý thần kinh mà ta không đề cập đến trong bài giảng này. Chúng ta chỉ nói đến đau vùng miệng mặt.

 

Đau vùng mặt được phân loại theo nhiều cách như theo phân loại của hiệp hội đau đầu thế giới hay hiệp hội nghiên cứu đau thế giới, theo hiệp hội này định nghĩa đau đầu như là 1 cảm nhận khó chịu kết hợp với một tổn thương thật sự hay tiềm tàng của tổ chức được miêu tả bằng thuật ngữ tổn thương. Nó đặt chủ thể sống dưới tình trạng đau, có thể là một triệu chứng bệnh hay vô căn. Điều này là do cấu trúc giải phẫu sinh lý bệnh của vùng mặt giàu chi phối thần kinh.

Hình trên cho thấy dây thần kinh sinh ba bắt nguồn từ thân não, phức hợp thần kinh bắt nguồn từ thân chính (trạm phát phân biệt cảm giác) của nhân sống (nhân miệng hay đuôi, trạm phát các thông tin cảm nhận tổn thương). Nhân đuôi được hình thành từ những neu ron cảm nhận tổn thương chuyên đáp ứng với các kích thích đau, và các neu ron ly tâm đáp ứng với nhiều kích thích khác (cơ học, nhiệt, hóa học) đến từ các bán cầu khác nhau (niêm mạc, miệng, khoang cơ khớp, màng não…) nó phát tán rất rộng không phụ thuộc vào cơ quan nhận cảm tam thoa với 3 nhánh.

 

Đặc tính này kết hợp với đặc điểm giải phẫu liên tục giữa nhân này với các sừng tủy sau từ C1-C3 giải thích sự hay gặp của cơn đau vùng mặt miệng và cổ. Những dây thần kinh cảm giác khác chịu trách nhiệm đau vùng miệng mặt là dây thiệt hầu IX 9 (đau vùng họng, lưỡi, khẩu cái sau, amydale, màng nhĩ), nhánh họng trên của thần kinh thượng vị X (họng), đám rối cổ nông (phần sau của sọ, vành tai và cổ) nhánh cảm giác của dây trung gian Wrisberg VII bis (xoăn tai). Các nhánh hướng tâm của dây sinh ba với các dây thần kinh cổ, các dây thần kinh sọ và các dây giao cảm giải thích tính đặc trưng của bệnh cảnh lâm sàng phức tạp, phối hợp. song song đó, sự chun giãn, các tính chất trên của neu ron thần kinh hướng tâm từ nhân đuôi và nhân miệng của phức hợp cảm giác của dây sinh ba, có thể thay đổi những rõ ràng những thông tin có hại đến từ ngoại vi. Sự điều biến cảm giác đau này có đặc tính của cơn đau mãn tính. Cuối cùng, cảm giác đau không được qui cho chỉ do các dẫn truyền từ các thụ thể cảm nhận tổn thương, mà nó còn được điều phối bởi thần kinh trung ương.

 

Như vậy mặt là một phức hợp cảm giác và nhận cảm. Giàu triệu chứng, mượn của nhiều chuyên ngành có thể giải thích việc nhiều bệnh nhân phải đi khám qua các  phòng khám chuyên khoa khác nhau. Chính vì vậy đây là một vấn đề sức khỏe cộng đồng (nghỉ làm việc, chi trả cho khám bệnh….). theo luật điều trị bệnh của các nước phát triển thì “tất cả mọi người dân có quyền nhận sự chăm sóc điều trị đau bao gồm khám, chăm sóc và điều trị”

Nếu không quá tuân theo sinh lý bệnh học thực sự thì chúng ta có thể phân đau vùng mặt làm 5 nhóm:

1.      Đau do thần kinh

2.      Đau do mạch

3.      Đau do bệnh lý Răng Hàm Mặt, Tai Mũi Họng và mắt

4.      Đau do khớp thái dương hàm

5.      Đau miệng mặt không rõ nguyên nhân

 

Khám lâm sàng phải thực hiện một cách trình tự. thường kéo dài >30 ph. Bắt đầu bằng hỏi bệnh, điều này tương đối khó đối với những người đã từng đi khám nhiều lần, có tính cách tâm lý mạnh, hay với những người có cơn đau mãn tính.      

Vị trí đau: vùng mặt, sọ, nửa sọ trong thiên đầu thống, sau hay quanh ổ mắt, lan tỏa hay chính xác như trong đau dây tam thoa. Chúng ta nên yêu cầu bệnh nhân chỉ tay chính xác vào vị trí đau đối với đau dây thần kinh, đau lan tỏa thường do các cơn đau cơ.

         Bên đau (một nửa, luôn luôn cùng phía hay thay đổi khi bên này khi bên kia hay cả 2 bên)

         Cường độ đau, đánh giá bằng việc miêu tả, tác động tâm lý trong cuộc sống theo ngày, nghỉ việc, tỉnh giấc ban đêm, sử dụng thang điểm đánh giá đau.

         Các đặc điểm của đau (đau rõ, đau như bị đấm, như điện giật trong đau do dây thần kinh, đau theo nhịp mạch trong thiên đầu thống)

         Kéo dài của cơn đau (vài giây, vài phút hay hàng giờ). Các cơn đau kéo dài trên 6 tháng được gọi là cơn đau mãn tính hay ” đau bệnh lý”

         Tần số của cơn đau (trong ngày, trong tuần, trong tháng) khoảng cách giữa các cơn đau

       Tiến triển đau theo thời gian: bắt đầu từ khi nào, giai đoạn giảm hay tăng triệu chứng gần đây)

         Các yếu tố khởi phát đau: sau điều trị răng, khi nhai, khi gắng sức, gặp lạnh, khi uống rượu như trong đau do vận mạch, có vùng khởi phát đau như trong đau dây thần kinh, thiếu ngủ, sang chấn, chấn thương, các loại thuốc đã sử dụng.

       Tiền triệu: dấu hiệu báo trước cơn đau, sự kích thích, buồn nôn, nôn, tình trạng vận mạch và bài tiết trong cơn đau mạch, dấu hiệu tiêu hóa trong thiên đầu thống…).

         Các điều trị hay phương tiện giúp giảm đau đã sử dụng và hiệu quả.

    Từ các dữ liệu khi khám bệnh này, thì ta định hướng được chẩn đoán. Nếu dữ liệu nghiêng về bệnh nguyên thần kinh thì thường do thiên đầu thống hay tổn thương trong sọ, bệnh nhân thường được gửi đến các nhà thần kinh. Ta chỉ có thể xem xét các cơn đau xuất hiện đột ngột hay nặng lên rất nhanh thì cần phải khám khẩn cấp. ngược lại, đau vùng mặt có thể tiến triển thành cơn với những khoảng nghỉ, không nặng thêm thường là các cơn đau lành tính.

Hỏi bệnh sau đấy là thực hiện khám lâm sàng:

         Tìm ban đỏ dưới da

         Sờ cẩn thận vùng mặt, đặc biệt là khớp thái dương hàm, và vùng cổ với việc tìm những điểm đau chọn lựa. sờ các cơ nhai: cơ thái dương, cơ trâm hàm, cơ nhị thân, cơ chân bướm ngoài và chân bướm trong, ấn nhãn cầu.

         Nghiên cứu cảm giác trong vùng dây tam thoa

         Kiểm tra trong miệng: há niệng, tình trạng răng, quanh răng.

         Nghiên cứu thần kinh của các nhánh dây thần kinh sọ (từ dây I đến dây XII)

 

Từ các kiểm tra cẩn thận thì chúng ta có thể chẩn đoán được 90% các trường hợp. một hệ thống thần kinh nhân tạo dựa trên 18 câu hỏi thực hiện 2 lần độc lập cho phép ta chẩn đoán nguyên nhân đau vùng mặt trong 95% trường hợp.

Ngoài ra các cấp cứu thần kinh hay những dạng không đặc trưng thì không cần chỉ định cấp cứu: cắt lớp sọ não và cọng hưởng từ, chọc dịch não tủy, các kiểm tra bổ xung nguyên nhân gây bệnh nghi ngờ (panorama…)

 

1. Đau vùng mặt do nguyên nhân thần kinh hay đau thần kinh mặt:

Nó liên quan đến các dây thần kinh cảm giác, đặc biệt là các nhánh thần kinh tam thoa hay dây thiệt hầu. Đau thần kinh này có thể là đau thật sự hay đau triệu chứng (do một bệnh lý chính xác).

            3 nhánh của dây sinh ba:

  • Nhánh mắt (V1) cảm nhận vùng da phần trước của vùng thái dương trên, sống mũi cũng như nhân trung, vùng niêm mạc của xoang trán, xoang bướm, phía sau của vách ngăn mũi. Nó cũng cho phối cảm giác của tai, kết mạc mi mắt.
  • Nhánh hàm trên (V2) chi phối cảm giác da của phần giữa của vùng thái dương, gò má, môi trên, cánh mũi và tiền đình của hố mũi. Vùng niêm mạc khẩu cái cứng và mềm, ống tai, xoang hàm và phần hố mũi, lựoi và răng hàm trên.
  • Nhánh hàm dưới (V3) là nhánh hỗn hợp duy nhất. chịu trách nhiệm cảm giác phần trước trên má, môi dưới, cằm và phần trước của vành tai. Vùng niêm mạc của 2/3 trước lưỡi ngoại trừ cảm giác trong má và sàn miệng. chịu trách nhiệm cảm giác của lợi và răng hàm dưới. nó là nhánh vận động các cơ nhai.

 

* Đau dây thần kinh tam thoa (dây V)

Đau mặt do dây tam thoa

Thuật ngữ đau thần kinh mặt phải dành cho đau dây tam thoa. Chẩn đoán dựa vào bản chất và đặc điểm cơn đau, khám lâm sàng.

Đặc điểm cơn đau:

  • Chỉ đau 1 bên, liên quan đến vùng nhánh thần kinh chi phối, khoảng 1/2 trường hợp là đau nhánh V2, sau đấy là nhánh V3, rất hiếm trường hợp đau nhánh V1 (5%)
  • Cơn đau xuất hiện luôn trên cùng một vùng, có thể là vùng chi phối của 2 nhánh hay cả 3 nhánh.
  • Cơn đau dữ dội, như điện giật, dao cắt. Trong cơn đau bệnh nhân phải nằm im bất động, co rúm. Rung giật nửa mặt (phản xạ vận động hay còn gọi là cơn đau “Tic”).
  • Cơn đau kéo dài vài giây nhưng thường thành loạt kéo dài 1-2 phút. Thường 1- 10 lần/ ngày. Hết cơn thì bệnh nhân hoàn toàn bình thường. cơn đau thường chỉ xuất hiện ban ngày.
  • Cơn đau xuất hiện tự nhiên hay khi bị kích thích, khi sờ vào vùng khởi phát (vùng cò súng) thường nằm trong vùng nhánh cảm giác chi phối.
  • Cơn đau cũng có thể gián tiếp: từ vùng khác, kích thích cảm giác (ánh sáng chói, đột ngột), tình huống trong cuộc sống hàng ngày (nhăn mặt, cười, nhai) làm cho bệnh nhân phải tránh những động tác này.
  • Khám lâm sàng hoàn toàn bình thường, không bao giờ thấy tê bì trong vùng cảm giác dây V.

Chú ý: những đặc điểm lâm sàng giúp chẩn đoán theo hiệp hội đau quốc tế:

A.  Cơn đau kịch phát vùng mặt kéo dài vài giây đến <2 phút của 1 hay nhiều nhánh dây V

B.  Cơn đau có 1 trong các triệu chứng sau:

         Đau dữ dội, cấp, nông bề mặt như bị đấm

         Khởi phát khi kích thích vùng lẫy (vùng khởi phát) hay bằng các hoạt động thường ngày (ăn, nhai, nói, cạo râu, đánh răng…)

         Trên cùng 1 bệnh nhân thì các cơn đau giống nhau.

         Không có dấu hiệu suy giảm thần kinh

         Không kết hợp với các bệnh lý khác

 

Tiến triển không liên tục và khác giữa các bệnh nhân. 1/2 bệnh nhân chỉ có 1 cơn đau, 28% có trên 4 cơn. Trong 1 số trường hợp khác thì tần số cơn đau tăng cùng thời gian. Các giai đoạn đau trở nên nặng hơn và kéo dài hơn.

Khi những đặc điểm này và biểu hiện của cơn đau đặc trưng, thì không phải cần thêm một khám nghiệm gì khác để xác định chẩn đoán. Ngược lại nếu là cơn đau không đặc trưng thì ta phải cho làm chụp cọng hưởng từ để loại trừ các nguyên nhân viêm nhiễm hay vận mạch thần kinh. Điều trị thử bằng Carbamazepin (Tégretol) cũng là một yếu tố xác định chẩn đoán.

Có các dạng lâm sàng khác nhau:

  • Dạng lành tính hay các giai đoạn đau cách xa và ngắn
  • Dạng người già, cơn đau mãn tính liên tục
  • Dạng kết hợp vận mạch: chảy nước mặt, chảy mũi nhất là dạng rất đau hay mãn tính, chú ý dễ nhầm với đau do mạch
  • Dạng đau cả 2 bên: trong 3% trường hợp, nhưng không bao giờ đồng thời cùng một lúc.
  • Dạng đề kháng toàn bộ hay thứ phát sau điều trị.

Bệnh sinh: có nhiều giả thuyết

vùng mất myelin của hạch hay của dây thần kinh ngoại vi là nguyên nhân của hoạt động điện bất thường của các dây nhận cảm có hại.

Sự ghép đôi của các dây không đau với dây đau hay rối loạn chức năng dạng thần kinh có thể gây đáp ứng quá mức với những kích thích không gây hại ngoại vi (vùng lẫy).

Sự xung đột vận mạch thần kinh ở vùng hạch tam thoa đôi khi có thể phát hiện được thông qua chụp mạch trên phim cọng hưởng từ.

Không loại trừ giả thuyết nào trong 3 giả thuyết này.

Đau dau thần kinh thiệt hầu (dây IX):

  • Đau dây thiệt hầu ít gặp hơn nhiều đau dây V chỉ bằng 1/70-100 đau dây V. thường gặp ở người lớn >60 tuổi.
  • Cơn đau tương tự đau dây V, đau theo cơn.
  • Thường 1 bên, thường ở bên trái. Gần với amydal, ở ống tai ngoài, đáy lưỡi, lan tỏa về phía tai và góc hàm.
  • Dạng khu trú ở tai có thể ở dưới dạng viêm tai hay viêm màng nhĩ. Vùng khởi phát là niêm mạc họng và vùng Amydale, khi nuốt, ho, xoay đầu, rất hiếm đau khi nói, há miệng và không bao giờ đau khi nhai như trong đau dây mặt.
  • Đau có thể kèm theo ho, tăng tiết nước bọt, loạn nhịp tim (ngất, hạ huyết áp).

* Đau triệu chứng dây thần kinh của dây thiệt hầu:

 amydale, tai, lao, ung thư Tai Mũi Họng (khó phát âm, khó nuốt) kiểm tra nội soi Tai Mũi Họng và bệnh loạn năng khớp hàm.

 (u hố não sau, u dây thần kinh, phản xạ nôn, giảm cảm giác, liệt vòm, tổn thương các nhánh sọ khác).

 hay đau vòi nhĩ do chèn ép dây thiệt hầu do quá phát mỏm trâm hay can xi hóa dây chằng trâm móng. Những bất thường này có thể do hậu quả của sang chấn hay sau cắt lưỡi. Cơn đau sâu ở vùng cổ và họng kèm theo khó nuốt, đau tai, cảm giác có vật lạ ở trong  họng. có có thể có những đặc điểm của một đau thần kinh IX với đặc điểm của một khó vận động lưỡi kịch phát. Khi khám sờ khối amydale thì tạo ra các triệu chứng và tìm thấy quá phát của mỏm trâm. Cũng như vậy, giảm triệu chứng khi gây tê tại chỗ là một kiểm tra để đưa ra chẩn đoán xác định. Chụp cắt lớp cho thấy các bất thường giải phẫu. điều trị dựa vào việc dùng tay bẻ gãy mỏm trâm. Trong trường hợp thất bại thì phải mổ đường trong hoặc đường ngoài.

 

2. Đau vùng mặt do mạch:

Người ta phân loại nguyên nhân theo mức độ cấp cứu khi khám, cần cấp cứu ngay hay cấp cứu trì hoãn.

Tách động mạch sọ cổ tự phát thường do tụ máu hay rách thành nội mạc mạch máu (động mạch cảnh và cột sống) là nguyên nhân hay gặp đau vùng mặt. ban đầu thì đau mặt kết hợp với đau đầu lan tỏa về phía mặt, đau cổ. Tách động mạch cảnh trong thường gây ra hội chứng Claude Bernard-Horner cùng bên, thông qua việc tổn thương hệ thống giao cảm quanh động mạch cảnh (liệt hệ giao cảm nhãn cầu: sụp mí, co đồng tử, co khe mi). Chấn đoán cấp cứu được xác định nhờ vào siêu âm cổ, chụp cọng hưởng từ và chụp cọng hưởng từ mạch não. Tách mạch có thể dẫn đến tai biến thiếu máu não hay nhãn cầu nếu không được điều trị cấp cứu.

Trước tất cả những trường hợp đau vùng mặt không đặc hiệu kết hợp với hội chứng Claude Bernard-Horner thì chúng ta cần phải loại trừ ngay Tách động mạch cảnh trong.

 

Chúng ta cần phải nghĩ đến trước tất cả các trường hợp đau mặt hay đau đầu xuất hiện lần đầu ở người >60 tuổi, đặc biệt là ở đàn bà. Cơn đau xuất hiện trong 60 – 90% trường hợp. một bên hay cả hai bên. Đau là triệu chứng hay gặp nhất. Dạng viêm động mạch tế bào khổng lồ này thường xuất hiện ở các động mạch kích thước lớn thường là các nhánh của động mạch cảnh ngoài. Đau đầu vùng thái dương là dấu hiệu tổn thương động mạch thái dương nông. Đau liên tục đôi khi xen kẽ với  những cơn đau kịch phát buổi sáng. Nó có thể kịch phát dạng tăng cảm giác khi tiếp xúc với da đầu (chải tóc, mang khuyên tai, mang kính đeo mắt, đội mũ…) những dấu hiệu đơn thuần miệng mặt có thể dẫn bệnh nhân đến khám: đau lưỡi, lưỡi thụt từng lúc, đai tai, đau răng. Nó giải thích sự tổn thương các nhánh của động mạch cảnh ngoài. Nhưng dấu khập khiễng từng lúc của hàm là một dấu hiệu đặc trưng bệnh Horton. Sau khi nhai vài phút thì bệnh nhân cảm thấy mỏi hàm, sau đấy đau đến mức bệnh nhân phải ngừng nhai. Dấu hiệu ở xa, đau dạng gốc theo bả vai và khung chậu thấy xuất hiện trong 50% trường hợp. đây cũng là dấu hiệu đặc trưng của bệnh. Các dấu hiệu này đi kèm với sự thay đổi tình trạng toàn thân của bệnh nhân.

 

Khi khám, phát hiện thấy dấu hiệu động mạch thái dương xơ cứng và giãn cùng với các hạt và đau. Nhịp đập của mạch thái dương yếu thậm chí tắc. mặt phù có thể cảm nhận bởi bệnh nhân, thậm chí có thể nhận thấy được khi khám lâm sàng

Xét nghiệm máu cho thấy hội chứng viêm viêm với tăng tốc độ máu lắng và phản ứng với protein C tăng (C Reactive Protein).

Chẩn đoán xác định phải dựa vào mô bệnh học thông qua sinh thiết động mạch thái dương cùng phía đau.

 

Điều trị corticoit phải được thực hiện sớm để tránh biến chứng mắt không hồi phục: mù do tắc nghẽn động mạch trung tâm võng mạc. Những biến chứng khác hiếm hơn là hoại tử nửa lưỡi, hoại tử một phần da đầu, liệt vận nhãn.

Sự xuất hiện của đau vùng mặt mà không có nguyên nhân rõ ở người trên 50 tuổi thì phải thực hiện xét nghiệm máu cấp cứu để xác định xem có hội chứng viêm hay không. Nếu có hội chứng viêm thì cần phải điều trị bằng corticoit để tránh biến chứng mắt nặng hơn.

 

Đau mạch vùng mặt:

  • Đau do mạch vùng mặt hay đau hay đau đầu thành cơn là 1 dạng đau đầu do dây sinh 3 không tự ý, nó có các đặc điểm chung:
  • Cơn đau chỉ khu trú 1 bên, trong vùng chi phối của dây sinh 3, vùng ổ mắt hay hàm trên
  • Xuất hiện theo cơn tương đối ngắn với độ dài thời gian thay đổi
  • Kết hợp với một rối loạn giao cảm
  • Mặc dù là dạng đau đa hình thái do phân bố định khu phức tạp, nhưng đau mặt do mạch vẫn là 1 thực thể trên phương diện lâm sàng, sinh lý bênh học và điều trị, với khoảng 0,1% người mắc. tần suất mắc thấp này không phản ánh sự thực là: những dạng định khu khác nhau không được chẩn đoán. Bệnh lý thường hay gặp ở nam thanh niên trẻ (tỷ lệ nam/ nữ là 7/1). Việc tiêu thụ thuốc lá ở phụ nữ làm thay đổi tỷ lệ này (nam/nữ còn 2,5). Thời điểm xuất hiện cơn đau đầu tiên thường giữa 20-40 tuổi.

Dạng thông thường hay xuất hiên ở vùng quạnh và sau ổ mắt. cơn đau có thể lan tỏa về phía thái dương “như đeo kính”, về phía má và vùng dưới ổ mắt, vùng hàm, mũi, tai, nửa sọ, một số trường hợp có thể lan đến cổ hay vùng vùng vai cùng bên. Cơn đau chỉ giới hạn 1 bên, xuất hiện đột ngột. cơn đau thường cùng một kiểu trên cùng 1 bệnh nhân  trong 80% trường hợp. cơn đau dữ dội, dạng đâm xuyên, dạng nghiền nát, dạng nén ép hay bỏng rát. Bệnh nhân đau đến mức phải nghiêng ngả người, làm ngừng tất cả các hoạt động khác. Thường làm bệnh nhân phải có các động tác như ấn mạnh tay vào vùng ổ mắt, bước thật mạnh, xoay vòng tròn… bệnh nhân thường miêu tả cơn đau dạng: bị thanh sắt nung đỏ xuyên qua, như dao cắt, rất khủng khiếp, “kiểu chuột gặm” trước kia khi không có các phương pháp điều trị thì thường dẫn bệnh nhân đến tự sát

Cơn đau này thường kèm với những dấu hiệu thần kinh thực vật cùng bên trong 95% trường hợp, với tần số hay gặp giảm dần theo thứ tự:

  • Chảy nước mắt
  • Rung giật giác mạc
  • Chảy nước mũi, xung huyết mũi
  • Phù nề mí mắt

Hội chứng Claude Bernard Horner không toàn bộ kết hợp với co đồng tử – sụp mi (dấu hiệu thần kinh duy nhất có thể nhận thấy), sụp mi có thể liên tục sau một vài cơn tiến triển.

Rối loạn tạm thời nhịp tim: mạch nhanh hay chậm.

Hiếm hơn thì có thể gặp lấm tấm mồ hôi nửa trán hay nửa mặt, một chỗ phồng lên bất thường của động mạch thái dương với mạch đập rõ và tăng nhạy cảm, khi ấn thì làm cơn đau giảm.

Trong 90% trường hợp đây là cơn đau theo chu kỳ. Cơn đau xuất hiện thành từng đợt kéo dài trong vài tuần (3-15 tuần), luôn luôn xen kẽ những giai đoạn hết đau kéo dài khoảng 1 tháng. Cơn đau kéo dài từ 15 – 180 phút. Giai đoạn đỉnh điểm thường từ 15-30 phút. Tần số khoảng 1 – 8 cơn/ ngày. Giờ đau thường cố định, ban đêm hoặc ban ngày, làm bệnh nhân thức dậy. gian đoạn lui bệnh thường vào mùa xuân hoặc mùa thu. Tóm lại đây là cơn đau lặp đi lặp lại, kéo dài nhiều ngày, xuất hiện cùng một giờ, các cơn cùng một độ lâu và kéo dài trong các giai đoạn nhiều tuần. yếu tố liên quan đã được miêu tả là hút thuốc lá (có mối liên quan chặt chẽ).

Yếu tố chủ yếu khởi phát là uống rượu, nhưng chỉ trong giai đoạn đau, ngoài cơn đau thì rượu lại không ảnh hưởng gì. Giảm oxy máu (lên vùng cao, hội chứng tắc nghẽn khi thở), sang chấn tâm lý, các dẫn chất của nitro, histamine với tác dụng giãn mạch là các tác nhân khởi phát khác.

Chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng, các kiểm tra bổ xung thường bình thường. Chỉ trong dạng đau mặt do mạch không đặc hiệu hay dạng đề kháng với điều trị thì mới cần đến IRM, để loại trừ các cơn đau mạch của mặt là triệu chứng của tổn thương mạch hay tăng áp nội sọ.

 

Lưu ý: tiêu chuẩn chẩn đoán của đau mặt do mạch theo phân loại quốc tế của rối loạn đau đầu

         Tối thiểu 5 cơn có các dấu hiệu từ B-D

         Đau một bên, nặng đến rất nặng, vùng ổ mắt, trên ổ mắt và/ hoặc vùng trán kéo dài từ 15-180 phút khi không được điều trị.

         Đau đầu kết hợp với tối thiểu một trong các triệu chứng sau:

         Rung giật kết mạc và/ hoặc chảy nước mắt

         Xung huyết mũi và/ hoặc chảy nước mũi

         Phù nề mi mắt

         Chảy mồ hôi trán hay mặt

         Co đồng tử và/ hoặc sụp mi

         Cảm giác lo lắng hay kích động

         Tần số cơn đau thay đổi theo đợt: 1 ngày/ 2, 8 cơn 1 ngày

         Các triệu chứng không phải là dấu hiệu của một bệnh lý khác

Đau mạch vùng mặt mãn tính thường đặc trung bằng các cơn đau kéo dài > 1 năm, không thuyên giảm hay có những đợt thuyên giảm dưới 2 tuần, gặp 10% trường hợp. thường là dạng theo giai đoạn nhưng 15% là dạng liên tục. bệnh lý này là một trong những nguyên nhân làm cho người bệnh trở nên cách ly với xã hội  và hội chứng trầm cảm.

Đau mạch vùng mặt triệu chứng, đặc trưng bởi các dấu hiệu lâm sàng và 1 bệnh cảnh không đặc trưng, và một đáp ứng một phần với điều trị. Ta cần phải đi tìm các tổn thương mạch hay tăng áp nội sọ như u màng não, rách hay phình động mạch (tủy sống, tĩnh mạch xoang hang), u tuyến yên, dị dạng động tĩnh mạch.

Dạng định khu phải được qui về đau mặt do mạch với triệu chứng đau. Nó thay đổi tùy theo vị trí:

  • Hội chứng Sluder (1908): gốc mũi, vùng ổ mắt, khẩu cái, răng hàm trên, thay đổi vị giác trong 2/3 trường hợp
  • Hội chứng Charlin (1931): góc trong mắt, gốc và cánh mũi, chảy nước mắt với sợ ánh sáng, co thắt mi, phù giác mạc.
  • Đau dây thần kinh chân bướm (1932): gốc mũi và vùng ổ mắt
  • Đau đầu tự ý của Bricknert và Riley (1935): giãn mạch nửa đầu
  • Đau thần kinh mi của Harris (1936): thái dương, má, mắt và xung huyết ổ mắt
  • Đau thần kinh đá của Gardner (1947): vùng ổ mắt ngoài với lan tỏa về phía má
  • Hội chứng Montbrun-BenistryL vùng sau ổ mắt, lan tỏa về phía chẩm tiến triển sau bệnh cảnh chấn thương.

Dạng biên giới tập hợp thành đau mãn tính, với đặc điểm nhịp mạch với những dấu hiệu giãn mạch nổi bật, khác với dạng cổ điển với tính chất giai đoạn, bệnh cảnh tiến triển, nhạy cảm với một vài điều trị. Sự khu trú giải phẫu, chức năng của những cấu trúc cận giao cảm áp dụng. Những dấu hiệu đau đầu tam thoa không tự ý thường có triệu chứng và đòi hỏi các thăm dò thần kinh (IRM hay chụp mạch IRM). Nguyên nhân tập trung vào thân não, vùng ổ mắt và hố yên. Theo phân loại IHS năm 2004, đau mạch máu vùng mặt, cơn đau kịch phát mãn tính nửa sọ và đau thần kinh V thường nằm cùng một nhóm dưới tên đau tam thoa mạch máu.

 

+  Đau kịch phát nửa đầu mãn tính: thường gặp ở phụ nữ, vùng thái dương – ổ mắt, đau như bị đâm, kéo dài 2-45 phút, tần suất 1-40 lần/ ngày. Thuốc điều trị cơ bản là Indometacin giúp chẩn đoán bệnh. Liều dùng dao động 50-200mg/ngày. Thường kèm với thuốc bảo vệ dạ dày. Chống chỉ định kết hợp Verapamil

+ Hội chứng SUNT (short-lasting unilateral neuralgiform headache attachs with conjunctival injection and tearing): đau vùng thái dương ổ mắt, đau như bị đấm vào mắt, kéo dài từ 5-250 giây, với tần xuất 1 cơn/ 1 ngày cho đến 30 cơn/ 1 tiếng

+  Đau dạng tíc Cluster: bắt đầu như đau dây thần kinh tam thoa thực sự, sau đấy xuất hiện các triệu chứng đặc hiệu của đau vùng mặt do mạch. Dạng này đáp ứng rất tốt với các thuốc chống động kinh

+  Đau nửa đầu liên tục: đau 1 nửa đầu, đau theo mạch đập, đau liên tục < 3 tháng với khả năng xuất hiện các cơn đau kịch phát, tần xuất từ 5-12 lần/ ngày, đáp ứng điều trị với indomethacine (indocid)

Với nhiều bệnh lý khác

  • Đau vùng mặt thực sự hay thứ phát, khu trú vùng tam thoa, không thể dự kiến được, không theo giai đoạn, đau như điện giật, kéo dài vài phút, nhạy cảm với Carbamazépine.
  • Cơn đau mắt, đặc biệt là Glaucome
  • Hội chứng cận tam thoa của Raeder hay ổ mắt khi kết hợp với đau dây thần kinh hay đau dạng mạch đập và một giảm cảm giác trong vùng dây thần kinh mắt, một tổn thương hệ giao cảm toàn bộ (hội chứng Claude Bernard Horner)
  • Hội chứng Tolosa-Hunt: kết hợp của liệt cơ vận nhãn (cơ vận động nhãn cầu chung) đau tái đi tái lại, mất cân bằng, nhạy cảm với corticoid. có hội chứng viêm.
  • Viêm răng miệng hay nguyên nhân do răng.
  • Đau sau chấn thương
  • Đau do viêm xoang
  • viêm xoang bướm, 99% nguyên nhân nhiễm trùng với đau vùng sau ổ mắt kết hợp với đau đỉnh đầu
  • Đau đầu do u tuyến thượng thận: đau vùng chẩm kịch phát, kèm với nhịp tim  nhanh, tăng huyết áp động mạch và tăng tiết mồ hôi nhiều
  • Đau nửa đầu thường gặp ở phụ nữ trẻ; các dấu hiệu giãn mạch và hội chứng Claude Bernard-Horner thì hiếm gặp, vị trí đau thay đổi theo từng cơn (1 bên, 2 bên, hay cân bằng), đi trước bằng các tiền triệu như buồn nôn, sợ ánh sáng. Bồn chồn của đau mạch mặt ngược với các nghiên cứu cảm giác độc lập của đau nửa đầu.
  • Đau đầu không rõ nguyên nhân được xem do căng thẳng, trong một bệnh cảnh  tâm lý đặc biệt, tăng lên khi cố chú ý, đau dạng nén vào đầu, dạng như bị niềng bó quanh đầu.
  • Đau đầu mãn tính hàng ngày do tiến triển của đau nửa đầu hay đau đầu do căng thẳng và tiến triển. thường trong bối cảnh dùng quá nhiều thuốc hay điều trị không phù hợp. Đau đầu xuất hiện trên 15 ngày/ tháng, tiến triển từ hơn 3 tháng, thời gian đau hàng ngày nếu không điều trị thì kéo dài trên 4 tiếng, không có tổn thương nguyên nhân.

Do những rối loạn vận mạch, tương tự như đau nửa đầu. Nhưng ngược với đau nửa đầu, động mạch tổn thương là những nhánh của động mạch cảnh ngoài nhất là nhánh hàm trong (động mạch thái dương nông và màng não thì gây đau nửa đầu). Cổ điển tiến triển thành 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn co thắt động mạch và vi mao mạch với dấu hiệu tiền triệu là của đau nửa đầu, còn đau mặt do mạch thì là giai đoạn tiềm tàng
  • Giai đoạn co giãn mạch biểu hiện bằng giai đoạn đau đầu
  • Giai đoạn phù nề: đặc trưng bằng phù nề thành động mạch với rối loạn tính thấm thành mạch

Hệ thống mạch máu tam thoa là nguyên nhân gây đau; kích hoạt hệ cận giao cảm phản xạ và đối bên, tổn thương hệ giao cảm do giãn động mạch cảnh. Trong 10 năm lại đây, vùng dưới đồi đã được viện dẫn để giải thích cho đặc điểm chu kỳ và theo giai đoạn.

Nếu cơ chế thần kinh mạch máu được thiết lập, thì nguyên nhân thực sự của đau mạch mặt luôn không được giải thích rõ.

 

Về hàm mặt hiện nay có rất nhiều người bị đau do nhiều nguyên nhân gây ra. ranghammat.com có đề cập tới từng phần của các bệnh lý hàm mặt, các chẩn đoán triệu chứng cũng như cách điều trị bệnh các bạn có thể xem các bệnh hàm mặt tại đây .

 

 

 

 

Tin cùng chuyên mục