lịch sử chỉnh nha
Dụng cụ niềng răng được tìm thấy trên các xác ướp Ai Cập:
Các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều di tích trong và xung quanh xác ướp Ai Cập, có những phần còn lại có một sợi dây làm từ ruột động vật bọc hoặc chạy dọc theo răng giống với một dạng chỉnh nha nhằm mục đích đóng các khe thưa trên răng
Thiết bị nha khoa La Mã dành cho người chết:
Các nhà khảo cổ phát hiện ra các thiết bị nha khoa Hy Lạp và Etruscans (được biết đến bằng tên”cầu nối”) chỉ ra rằng con người bắt đầu thực hành chỉnh hình răng mặt vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên.
Người Etruscans sống ở Ý vào khoảng năm 770 đến 270 trước Công nguyên, và là người tiền sử của người La Mã cổ đại. Người Etruscan có nghi lễ chôn cất nghiêm trang, liên quan đến việc chuẩn bị cho cơ thể thế giới bên kia, trước khi chôn vùi trong một ngôi mộ.
Các nhà khảo cổ phát hiện ra rằng một phần của nghi lễ chôn cất bao gồm việc đặt một thiết bị tương tự như thiết bị bảo vệ miệng vào miệng của người chết nhằm mục đích duy trì khoảng cách và để ngăn chặn một sự sụp đổ vào bên trong của răng, vì vậy người quá cố nhìn đẹp hơn khi họ bước vào thế giới bên kia. Các cầu răng bằng vàng nguyên chất được khai quật từ các vị trí khảo cổ ở miền trung Italy. Một phát hiện quan trọng là các cầu răng vàng chỉ có trên xác ướp phụ nữ.
Sử dụng lực đẩy ngón tay của người La Mã cổ đại:
Cornelius Celsus Aulus là một người La Mã cổ đại người đã cống hiến cuộc đời mình cho nghiên cứu và phát hiện thủ tục y tế mới. Celsus đã viết chi tiết về công việc của mình, là người có nỗ lực đầu tiên được tính toán đến việc di chuyển răng bằng cách sử dụng lực ngón tay. Celsus ghi nhận một bệnh nhân dùng lực ngón tay để đẩy các răng đều. Thông qua các ghi chú chi tiết, Celsus đưa ra giả thuyết là răng đã từ từ di chuyển và tự sắp xếp lại do lực ngón tay tác động kéo dài.
Những nỗ lực La Mã sớm tại Niềng răng:
La Mã phát minh ra một thiết bị tương tự như các thiết bị nha khoa nha khoa chỉnh hình răng hiện đại. Nhiều ngôi mộ La Mã đã được mở ra bởi các nhà khảo cổ chỉ phát hiện ra rằng một số răng của người quá cố đã có một sợi dây vàng nhỏ, được biết đến như là một dây thắt, được sử dụng để đóng các dây vòm khung. Các dây điện đã được liên kết với các răng trong một nỗ lực để buộc các răng di chuyển và đóng kín những khoảng trống đáng chú ý. Mặc dù không có ngày ghi nhận, quá trình này là rất có thể trước khi bắt đầu của thời đại chúng ta.
Bình minh của Niềng răng trong nghiên cứu nha khoa:
Trước khi niềng răng giới thiệu với công chúng, thì người ta phải tiến hành nghiên cứu y tế và nha khoa cần thiết. Niềng răng nha khoa và các khái niệm về chỉnh nha bắt đầu xuất hiện trên các tạp chí y khoa và sách khoảng năm 1770. “nha sĩ”: “Nha Sĩ” là một cuốn sách y tế công bố năm 1728 bởi Pierre Fauchard. Fauchard là một bác sĩ phẫu thuật nha khoa Pháp nổi tiếng với sự phát minh nhiều kỹ thuật nha khoa. Ông đã phát hành nhiều tài liệu chủ đề nha khoa nói chung, nhưng những gì làm cho cuốn sách nổi bật trên thế giới là một chương đặc biệt dành cho việc chỉnh hình răng mặt. Chương này khám phá nhiều cách khác nhau để làm thẳng răng, nhưng tập trung chủ yếu vào một khái niệm tương đối mới liên quan đến “khâu”. Các “khâu” là một thiết bị nha khoa trông giống hình móng ngựa. Thiết bị này đã được đưa vào miệng của bệnh nhân để giữ vị trí tự nhiên của răng.
“Nghệ thuật Nha khoa”: “Nghệ thuật nha khoa” là một cuốn sách y tế phát hành năm 1757 bởi các nha sĩ làm cho vua nước Pháp. Pierre Bourdet dành riêng một phần của cuốn sách để miêu tả các phương pháp khác nhau được sử dụng để làm thẳng hàng răng.
Hai giả thuyết quan trọng trong “nghệ thuật nha khoa” là lý thuyết cho rằng nhổ răng khôn có thể giúp ngăn chặn chen chúc răng, thứ hai là “khâu” cải tiến. Pierre Bourdet viết nhiều cách thiết bị có thể được cải tiến từ ý tưởng ban đầu của nó.
Các phát minh cơ bản của chỉnh nha:
Thuật ngữ “niềng răng” đã không được đặt ra cho đến đầu những năm 1900. Tuy nhiên, các nha sĩ đã làm việc chăm chỉ để tạo ra, cải thiện các phương pháp và kỹ thuật xếp thẳng răng. Thế giới của chỉnh hình răng mặt có những tiến bộ đáng kể mà cuối cùng dẫn đến việc phát minh ra niềng răng ngày nay. Tiến bộ chỉnh hình răng mặt giữa những thập niên 1800 – 1890 bao gồm:
Năm 1819 – Christophe-Francois Delabarre phát minh ra “dây cung” đầu tiên. “dây cung” là dạng đầu tiên của nẹp răng, nhiều người cho là hình thức đầu tiên của chỉnh hình răng mặt hiện đại ngày nay. “Dây cung” là một thiết bị nửa vòng tròn đặt trực tiếp lên các răng, để làm thẳng hàng răng.
Năm 1843 – Tiến sĩ Edward Maynard là nha sĩ đầu tiên sử dụng chun cao su như là một kỹ thuật để cải thiện tương quan giữa 2 hàm. Một vật liệu đàn hồi kéo vào hệ thống dây buộc trên răng làm từ từ di chuyển hàm đến vị trí thích hợp.
Năm 1850 – E.J. Tucker cùng với bác sĩ Maynard sử dụng chun cao su để sửa sai khớp giữa 2 hàm. Tucker lấy ống cao su dài và cắt nó thành những vòng nhỏ để có thể móc dễ dàng trong miệng.
Năm 1864 – Một nha sĩ New York tên là bác sĩ SC Barnum đã phát minh “đê cao su”. Đê cao su là một tấm cao su to để giữ cho các răng khô khi Nha sĩ làm việc trên răng. “Đê cao su” sau đó được áp dụng vào việc cách ly khô răng trong quá trình gắn mắc cài .
Năm 1893 – Henry A. Baker là người đầu tiên kết hợp nhiều khái niệm được sử dụng bởi các nha sĩ trước đó vào điều trị chỉnh nha. Baker đã phát minh ra phương pháp được gọi là “neo giữ Baker”. Neo giữ Baker kết hợp các ống cao su được phát minh bởi EJ Tucker với “dây cung”. Kỹ thuật này giúp loại bỏ nhu cầu nhổ răng trong việc làm thẳng hàng răng.
Năm 1894 – Eugene S. Talbot là nha sĩ đầu tiên ứng dụng tia X vào trong chỉnh hình răng. X-quang đã được thường được sử dụng để phát hiện các răng ngầm dưới lợi. Talbot tin rằng phát hiện và nhổ các răng này sẽ giúp loại bỏ được chen chúc răng trên miệng.
Những tiến bộ trong niềng răng trong thế kỷ 20:
Việc sử dụng chính thức đầu tiên của từ “niềng răng” là vào đầu những năm 1900. Trong khi tên vẫn giống như các kỹ thuật được sử dụng trong nha khoa hiện đại, nhưng kỹ thuật thực tế và các thiết bị sử dụng trong chỉnh hình răng mặt cải tiến đáng kể trong thế kỷ 20. Các mắc cài của đầu những năm 1900 khác đáng kể khác với các mắc cài hiện tại. Các nha sĩ quấn băng kim loại cá nhân xung quanh các răng khác nhau. Các khâu đó sẽ được nối với nhau bằng một sợi dây cung. Dây cung tạo ra áp lực làm răng di chuyển thẳng hàng từ từ. Không có tiêu chuẩn quy định về loại vật liệu được sử dụng khi mắc cài mới ra đời. Một số nha sĩ sử dụng ngà voi, trong khi những người khác sử dụng gỗ, đồng, kẽm. Các vật liệu được sử dụng là hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích cá nhân của nha sĩ, ngân sách của bệnh nhân, và những gì đã có sẵn trong khu vực địa lý vào thời điểm đó. Tuy nhiên, có một vật liệu được ưa thích bởi nhiều nha sĩ trên toàn thế giới là vàng.
Vàng được ưa thích bởi nhiều nha sĩ vì vàng là vật liệu dễ gia công làm nóng. Vàng có thể được định hình và đúc để bọc xung quanh răng. Vật liệu như dây cung, khâu, móc, được làm từ 14K và vàng 18K. Trong khi vàng là vật liệu ưa thích nhưng ít được dùng do một số lý do: Vàng rất đắt vào những năm 1900, và không phải tất cả bệnh nhân có thể đủ khả năng chi trả. Ngoài giá vàng, bệnh nhân đeo niềng răng vàng cần được điều chỉnh thường xuyên do vật liệu bị mềm đi do nhiệt độ cơ thể.
Những bệnh nhân không thể đủ khả năng để mua vàng được sử dụng để niềng răng thường sẽ phải sử dụng lựa chọn thứ hai của nha sĩ là bạc. Bạc rẻ hơn đáng kể hơn so với vàng, nhưng không đàn hồi. Tuy nhiên, nó được ưa thích hơn các vật liệu thay thế như ngà voi và gỗ, mà là vô cùng khó khăn để làm việc với tại thời điểm đó.
Kỹ thuật mắc cài Cải thiện trong năm 1970:
Kỹ thuật chỉnh nha hiện tại tương đối giống với những năm 1970 mặc dù nhiều kỹ thuật mang tính đột phá đã được phát hiện. Kỹ thuật mang tính đột phá lớn nhất là việc sử dụng chất kết dính răng để giữ mắc cài trên răng.
Việc sử dụng thép không gỉ, thay vì vàng hay bạc, là một phần của kỹ thuật nha khoa được sử dụng để cải thiện kỹ thuật niềng răng trong những năm 1970. Thép không gỉ đã trở nên phổ biến vào những năm 1960, nhưng phải đến giữa những năm 1970 rằng các nha sĩ bắt đầu sử dụng làm vật liệu thực hành nha khoa của họ. Thép không gỉ là giải pháp cho cả bệnh nhân và bác sĩ nha khoa; bệnh nhân đã được hạnh phúc bởi vì nó làm giảm chi phí niềng răng, trong khi nha sĩ thích nó bởi vì nó là cực kỳ đàn hồi dễ dàng thao tác.
Những năm 1970 cũng chứng kiến sự nỗ lực đầu tiên của niềng răng “không nhìn thấy”. Mọi người muốn một thay thế cho các dây cung khó coi và khí cụ đội đầu. Các nha sĩ tại Nhật Bản và Mỹ bắt đầu thử nghiệm với khả năng niềng răng nha khoa có thể gắn vào mặt trong của răng, thay vì bên ngoài. Đặt mắc cài mặt trong của răng cho phép mọi người để có được những lợi ích của niềng răng mà người khác không nhìn thấy được.
Hoàn thiện của kỹ thuật “Niềng răng không nhìn thấy” trong những năm 1990:
Khái niệm về niềng răng không nhìn thấy là mối quan tâm lớn và nghiên cứu giữa những năm 1970 -1990. Nhưng phải đến năm 1997, một kỹ thuật được phát hiện bởi 2 người không được đào tạo nha khoa, đã được chấp nhận rộng rãi bởi các bác sĩ chỉnh nha trên toàn cầu.
Zia Chishti, tốt nghiệp Đại học Stanford không có kiến thức y tế, nha khoa, phát hiện ra rằng hàm răng của mình bắt đầu thay đổi khi anh đeo hàm nhựa duy trì là một phần của điều trị chỉnh nha của mình. Khi đeo trở lại hàm duy trì trở lại vài ngày, nó sẽ từ từ di chuyển răng trở về vị trí thẳng hàng. Chishti đã mang khám phá của ông trình bày với Kelsey Wirth (cũng tốt nghiệp ở Stanford, làm nhà đầu tư ngân hàng cho Robertson Stephens) để tạo ra một phương pháp kết hợp giữa công nghệ máy tính 3-D với nhựa hàm duy trì. Công nghệ 3-D chụp hình ảnh của răng của bệnh nhân, và chỉ ra cách di chuyển răng để làm thẳng hàng răng. Sự di chuyển răng đến vị trí thẳng hàng cần đến nhiều giai đoạn.
Mỗi giai đoạn của tiến trình sẽ phải sử dụng một máng nhựa khác nhau, mang trong một khoảng thời gian nhất định. Các máng nhựa sẽ di chuyển răng dần về vị trí mong muốn tương tự như tác dụng của mắc cài
Chishti và Wirth đồng sáng lập công ty Align “để phát triển một thế hệ mới của công nghệ cao sản phẩm chỉnh hình răng.” Quá trình được biết đến như công nghệ Invisalign, và nó đã trở thành thông dụng vào năm 2000. Ngay sau đó nha sĩ và bác sĩ chỉnh nha trên toàn thế giới đã áp dụng vào công việc hàng ngày của họ.
Phổ biến của Niềng răng trong xã hội ngày nay:
Khi niềng răng lần đầu tiên được phát minh nó là một thiết bị nha khoa dành cho những người giàu có, hoặc những người bị biến dạng răng mặt nặng. Ngày nay, niềng răng được coi là một thủ thuật nha khoa thông thường mà nhiều trẻ em và người lớn đã sử dụng để làm đẹp nụ cười của họ và cải thiện vệ sinh răng miệng và sức khỏe tổng thể.
Thống kê do Hiệp hội Chỉnh hình răng của Mỹ cho thấy: Hơn bốn triệu người ở Hoa Kỳ đã trải qua một số dạng điều trị chỉnh nha. Điều trị chỉnh nha có thể bao gồm niềng răng, niềng răng không mắc cài, hoặc hàm duy trì.
♦ 33% dân số thế giới đã trải qua điều trị chỉnh nha tại một số điểm trong cuộc sống của họ.
♦ 80% thanh thiếu niên tại Hoa Kỳ hiện nay đã được điều trị chỉnh nha.
♦ Số lượng người lớn đang tìm kiếm điều trị chỉnh nha tăng 24 % từ năm 1982 đến 2008.
♦ Năm1982-2008 đã tăng 99 % các trường hợp chỉnh hình răng mặt thiếu niên tại Mỹ.
♦ Độ tuổi trung bình điều trị chỉnh răng ở Mỹ là khoảng 10 tuổi, khác đáng kể với những năm 1900 khi độ tuổi điều trị trung bình là giữa độ tuổi 20
Niềng răng tương lai có thể đi đến đâu
Niềng răng đã đi một chặng đường dài kể từ khi con người sử dụng sợi dây cước nhỏ từ từ dịch chuyển răng. Trong thực tế, đã có rất nhiều tiến bộ trong các kỹ thuật được sử dụng mà thật khó để tưởng tượng rằng sau gần 3.000 năm không có giới hạn cho sự phát triển trong thế giới của chỉnh hình răng mặt. Các bác sĩ chỉnh nha dự đoán tương lai của ngành nắn chỉnh là tìm các phương pháp điều trị giúp giảm chi phí và thời gian điều trị.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể là việc sử dụng thép kích hoạt nhiệt, niken-titan có thể là sự tiến lớn tiếp theo trong điều trị chỉnh nha. Các nhà nghiên cứu tin rằng kim loại này, có thể được đúc thành một sợi dây nhỏ, có thể cải thiện việc làm thẳng hàng răng tăng hiệu quả điều trị, giảm thời gian và giá thành của điều trị chỉnh nha.