LỊCH SỬ IMPLANT NHA KHOA
Implant nha khoa được xem là một mốc son trong thực hành nha khoa. Implant nha khoa thời kỳ đầu làm bằng đá và ngà voi được tìm thấy ở người Trung Quốc và người Hy Lạp cổ trước công nguyên. Đến thế kỷ thứ 16, 17 nó được làm bằng vàng và ngà voi.
Đầu thế kỷ 20, implant nha khoa bằng kim loại được làm từ vàng, chì, iridium, tantalum, kim loại không gỉ và hợp kim của cobalt. Loại implant nha khoa dạng bản dưới màng xương làm bằng titanium hoặc bằng Crom-Cobalt-Molypden được giới thiệu vào thập kỷ 1940 và 1960 đã được dùng phổ biến và rất thành công từ những năm 1950 đén năm 1980. Nhưng rồi những luận điệu thổi phồng về khả năng làm gia tăng bệnh tật sau này không thể biết trước được làm cho mọi người không còn tin tưởng và thích thú với chúng nữa mà thậm chí còn tẩy chay implant. Do vậy, implant thời gian sau đó không được ưu chuộng.
Đến năm 1978, hội nghị implant nha khoa quốc tế được Viện sức khoẻ quốc gia và Trường đại học Harvard tổ chức do Schnitman và Shulman làm đồng chủ tịch với tiêu đề “Implant nha khoa, lợi ích và tác hại ” đã đánh dấu một bước ngoặt. Các số liệu trước đâyvề implant nha khoa đã được thu nhập và phân tích bằng các bảng thống kê tuổi thọ trung bình (Hình1-1,1-2). Hội nghị cũng đã đưa ra các tiêu chuẩn của implant nha khoa và giao trách nhiệm cho các tổ chức nha khoa tiến hành nghiên cứu và ứng dụng.
Sau đó, vào năm 1982, tại Toronto, Brånemark đã giới thiệu công trình nghiên cứu trong vòng 15 năm trước đó của mình ở Gothenberg-Thuỵ Điển. Tại hội nghị, ông đã công bố các quan điểm cơ bản của mình từ các nhóm nghiên cứu trên lâm sàng và khám phá của ông về khả năng tích hợp xương của Implant. Các dữ liệu lâm sàng thu thập được từ các thử nghiệm trong vòng 5đến 12 năm ở Thụy Điển có sử dụng vít titanium hai thì của Brånemark đã đóng góp rất nhiều cho ngành implant học.
Hội nghị ở Toronto đã mở ra một xu hướng mới, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của implant nha khoa Brånemark cũng như bất kỳ hệ implant nào khác hiện nay. Khám phá về sự tích hợp xương không còn nghi ngờ gì nữa là một chứng cứ khoa học xác đáng phá vỡ các quan điểm sai lầm trong 10 đến 20 năm trước đó. Với thực tế tích hợp xương tốt, implant nha khoa dạng chân răng càng trở thành dạng thiết kế nổi bật nhất. Hệ thống vít đặc hoặc rỗng hình trụ, có hay không có titanium phun plasma hay phủ lớp HA (hudroxylapatide) ngày nay đang được ứng dụng rất thành công. Abutment mềm dẻo cho phép implant chuyển động tương tự như răng thật là một đóng góp của hệ thống implant IMZ press-fit có phun plasma.
IMPLANT CỔ XƯA
Người Hy Lạp cổ đại và người Nam Mỹ cổ đã biết sử dụng implant để thay thế các răng mất. Trong viện bảo tàng cơ thể học của trường đại học Harvard có một sọ người sống ở thời kỳ trước khi Colôm tìm ra châu Mỹ mà trên đó có chiếc răng nhân tạo được khắc gọt bằng đá đen thay thế cho chiếc răng của bên hàm dưới trái. Người phụ trách viện bảo tàng cho biết đó là một chiếc implant được tìm thấy trên sọ người Anh-Điêng sống ở vùng Nam Mỹ thời kỳ đó. Những implant cấy ghép bằng răng động vật hay gọt từ ngà voi tìm thấy ở người Hy Lạp cổ đại là những bằng chứng sớm nhất bắt đầu ngành implant học. Tuy nhiên, tuổi thọ của các implant làm bằng vật liệu thô và phương pháp không tinh vi này kéo dài được bao lâu thì còn là điều đáng ngờ.
IMPLANT GIAI ĐOẠN SỚM
Năm 1809, Maggiolo đã đặt một implant bằng vàng không có thân răng một thì vào huyệt ổ răng vừa nhổ và thò lên trên lợi giúp lành thương thụ động. Sau khi ổ răng lành mới gắn thân răng lên. Việc cầy ghép các chân răng bằng vàng như thế không tránh khỏi sau này bệnh nhân bị đau và viêm lợi. Loại chốt platinum phủ lớp chì nhám ở chân răng có thân răng bằng sứ, hay chốt hình ống bằng vàng hoặc iridium cũng đã được sử dụng. Ngoài ra còn có loại chốt phủ lớp ngoài bằng bạc hay bằng sứ nhăn ( corrgated porcelain). Năm 1913, Greenfield đã sử dụng dây hợp kim iridium 24- gauge và vàng 24- carat để chế tạo một loại giỏ hình ống có hai phần ( Hình 1-3), đó chính là loại giỏ hình ống đầu tiên ngày nay vẫn dùng. Năm 1973, Adams đã sáng chế ra loại implant hình trụ xuyên có phần chóp tròn, phần cổ nhẵn và có nắp bịt lành thương( healing cap). Đầu tròn hình cầu được bắt vít vào phần chân implant để giữ hàm giả giống như cách ngày nay thường làm. Loại implant Adams không biết đã sử dụng bao nhiêu trên lâm sàng nhưng người ta thấy tuổi thọ của nó có thể kéo dài tới 50năm. Tuy nhiên, nó đã không thu được nhiều thành công, mặc dù vậy nó đã đánh dấu một giai đoạn mới xuất hiện các loại implant hiện đại.
Hình 1-3: implant dạng giỏ hình ống hai phần của Greenfield, 1913, tiền thân của loại giỏ hình ống |
Cho đến thời điểm hiện nay, sự thành công của implant mới chỉ là giai đoạn đầu, nó còn được đánh giá trong nhiều năm nữa. Strock ở đại học Harvard là người đầu tiên sử dụng implant trong xương vĩnh viễn và đã thành công. Năm 1938, Strock đặt một implant xuyên bằng vitalium (chrom-cobalt-molypden) vào huyệt ổ răng vừa nhổ, implant này được hãng Austenal thiết kế mà tiền thân là Howmedia Corporation. Implant này có hình côn và được gắn chụp jacket bằng cement. Túi quanh implant được đổ đầy xương vụn, nó đã tồn tại rất vững chắc và không có triệu chứng bệnh lý gì mãi cho tới năm 1955 khi bệnh nhân chết do tai nạn giao thông.
IMPLANT DƯỚI MÀNG XƯƠNG( superiosteal implants)
Do lượng xương không đủ chỗ để đặt implant trong xương nên các nha sĩ thường dùng loại implant đặt trên bề mặt và xung quanh xương dưới dạng implant dưới màng xương . Năm 1943, Dalh đã đặt một cấu trúc bằng kim loại lên bề mặt xương hàm trên và xương hàm dưới có 4 chốt nhô ra. Goldberg và Gershkoff đã lấy dấu niêm mạc phủ trên sống hàm mất răng và đổ mẫu. Trên mẫu đó các ông đã chế tạo mẫu ghép bằng Chrom-cobalt- molypden có nhiều cửa sổ nhỏ hẹp và 4 trụ đỡ rất chính xác( hình 1-4). Các nha sĩ đã cải tiến kỹ thuật này thành kỹ thuật hai thì. Sau đó, thiết kế loại implant này đã được sửa đổi rất khác nhau.
Mô hình xương hàm dưới theo không gian ba chiều ngày nay có thể được dựng lên bằng máy chụp CT scanner không cần phải tiến hành phẫu thuật mở rộng xương rôig lấy dấu xương trực tiếp. Máy tính còn có thể dựng mẫu qua hệ thống CAD-CAM ( computer aided design- computer aided manufacturing), xong vẫn không thể chính xác bằng lấy dâu xương trực tiếp nên một số phẫu thuật viên vân sử dụng kỹ thuật lấy dấu trực tiếp này.
Hình 1-4: implant dưới màng xương đầu tiên của Gershkoff và Goldberg.
B, implant dưới màng xương trải rộng chế tạo nhờ lấy dấu xương trực tiếp.
IMPLANT DẠNG TRỤ, DẠNG VÍT, DẠNG CHỐT CẤY TRONG XƯƠNG MỘT THÌ (one-state endosteal pins, screws and cylinders )
Rất nhiều thiết kế các loại implant được biết đến vào đầu những năm 1960. Các loại implant hình vít thường chỉ có một phần duy nhất, không ngập hết vào trong xương và nói chung không có khả năng tích hợp xương. Một số tác giả cho rằng màng xơ xung quanh implant có thể hấp thụ hết các lực sang chấn và giúp implant dính chắc vào xương. Ngày nay, chúng ta biết điều đó là không thực tế.
Hình 1-5 : các implant dạng bản của Linkow đầu tiên |
IMPLANT DẠNG BẢN ( blade implants)
Năm 1967, hai loại implant dạng bản đã được hãng Linkow và hãng Robert and Robert giới thiệu. Hãng Linkow thiết kế implant dạng bản với rất nhiều hình thù khác nhau để phù hợp với cầu trúc giải phẫu của xương hàm trên và xương hàm dưới (Hình 1-5) đặc biệt là có thể cấy ghép vào sống hàm hẹp. Loại implant này đòi hỏi chia sẻ sự nâng đỡ với các răng thật khác và bản thân nó không thể đảm đương được chức năng nếu chỉ có một mình. Implant dạng bản có thể được cấy ghép vào trong miệng dễ dàng và dần được sử dụng rộng rãi trong ngành cấy ghép ở Mỹ và trên toàn thế giới.
IMPLANT DẠNG XUYÊN XƯƠNG ( transosteal implants)
Năm 1975, Small giới thiệu loại implant xuyên xương hàm dưới, là một loại xuyên từ bờ dưới cằm lênl găm vào xương hàm dưới bằng một số vít ngắn, còn hai thanh vít dài xuyên qua xương, implant này có chức năng như một khung để nâng đỡ hàm giả. Loại implant này chỉ giới hạn sử dụng cho xương hàm dưới. Ngoài ra, trên lâm sàng còn có hai loại implant xuyên xương khác là loại implant xuyên xương đơn của Cranin và loại implant xuyên xương hàm dưới của Bosker.
IMPLANT TRONG XƯƠNG DẠNG CHÂN RĂNG (endosteal root-form implants)
Implant dạng chân răng có ren bằng titanium phẫu thuật hai thì được Brånemark giới thiệu ở Bắc Mỹ vào năm 1978 tại hội ở Toronto (Hình 1-6).Brånemark qua những nghiên cứu vi thể trên cơ thể sống đã nhận thấy sự liên kết của các mắt titanium khi cấy ghép váo xương đùi của thỏ không thể lấy ra được khi vết thương đã liền. Brånemark đã cải tiến và thử nghiệm hệ thống implant nha khoa bằng vít titanium nguyên chất mà ông gọi là fixtures. Fixture đầu tiên được cấy ghép cho bệnh nhân vào năm 1965 và từ đó trở đi nó càng được nghiên cứu nhiều trên lâm sàng. Những nghiên cứu trong thời gian dài của ông đã cho thấy các chứng cứ về tuổi thọ của implant là lâu dài, đảm đương được chức năng mà không cần giá đỡ, cấu trúc xương tốt và cải thiện đáng kể tỷ số lợi/ hại hơn nhiều so với các thế hệ implant nha khoa trước đó. Khả năng tích hợp xương là điểm nổi bật nhất phá vỡ những nghi ngờ trong nha khoa suốt 20 năm trước. Đó là một cuộc cách mạng trong điều trị nha khoa. Nhờ có hệ thống implant của Brånemark mà bắt đầu xuất hiện khái niệm trụ đỡ và hàm giả gắn chặt có thể tháo rời. Dựa trên các chứng cứ khoa học đầy sức thuyết phục của Brånemark về hiệu quả và độ an toàn của implant nha khoa, mà các trường nha và các chuyên gia nha khoa trước đây đã từng không ủng hộ lĩnh vực này, cuối cùng đã nhận ra và hợp tác cùng phổ biến các kiến thức về implant nha khoa trong chương trình giảng dạy của các trường.
Hình 1-6: implant dạng chân răng có ren phẫu thuật hai thì của Brånemark |
Sau này, hệ thống implant nha khoa Brånemark đã được thiết kế nhiều dạng chân răng khác nhau và ngày càng sử dụng rộng rãi trên lâm sàng. Một số là loại vít truyền thống ( ITI- có lớp ngoài phun plasma), một số loại dạng bản chứ không phải chịu nến hình trụ có phun lớp plasma, một số khác có hình trụ rỗng (ITI, Core-Vent), một số lại được phủ lớp ngoài là HA (Integral, Calcitek, Inc). Lớp ngoài phun plasma hoặc vật liệu khác tạo nên bề mặt xù xì giúp cho việc bám dính vào xương tốt hơn đồng thời cho phép tăng diện tích để truyền lực. Hình 1-7 là một ví dụ về loại implant xuyên xương và trong xương.